Bài Phỏng vấn của Japan Foundation (Số 12) Nghệ sĩ Thu Huyền và đôi nét về Nghệ thuật Chèo Việt Nam
13/06/2012
Nghệ sĩ Thu Huyền là một trong những gương mặt ưu tú của làng Chèo Việt Nam. Tuy tuổi đời còn khá trẻ, nhưng chị đã được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú (NSƯT), một vinh dự mà không phải người nghệ sĩ trẻ nào cũng có được. Tháng 12/2010, chị được mời tham gia chương trình “Hòa nhạc Karin và Nhóm Tứ Tấu” cùng các nghệ sĩ Nhật Bản tại Nhà hát Tuổi trẻ do Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức.
Chương trình đặc biệt đã gây được ấn tượng mạnh mẽ với khán giả trong và nước ngoài qua hai tiết mục hát Chèo “Văn cô Bơ” và “Con nhện giăng mùng” của nghệ sĩ Thu Huyền trên nền nhạc phối khí của các nhạc cụ dân tộc như đàn tranh Việt Nam, đàn KOTO và sáo trúc Nhật Bản, cùng các nhạc cụ hiện đại như đàn Piano và trống nước.
Để đáp lại lòng hâm mộ của các khán giả dành cho nghệ sĩ Thu Huyền, Trung tâm đã có một buổi phỏng vấn nhỏ với chị, để cùng tìm hiểu về nghệ thuật Chèo, về sự nghiệp và những cảm nghĩ của chị dành cho buổi Hòa nhạc.
JF: Chị Huyền thân mến, là một nghệ sĩ Chèo rất được yêu mến ở Việt Nam, chị có thể chia sẻ với những người hâm mộ cơ duyên nào đã đưa chị đến với Chèo và những thành tựu mà chị đã đạt được trong sự nghiệp của mình?
NSƯT Thu Huyền (TH): Xin chào các quý vị khán giả, tôi là Thu Huyền, nghệ sĩ Chèo của Nhà hát Chèo Hà Nội, một Nhà hát uy tín mang cấp quốc gia của Việt Nam và là nơi quy tụ các thế hệ nghệ sĩ Chèo nổi tiếng của đất nước. Tôi đã công tác ở đây được gần 20 năm và đã đạt được một số thành tích như Huy chương Vàng, Huy chương Bạc trong các kỳ hội diễn và cũng rất tự hào đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú vào năm 2007, như một sự ghi nhận cho những thành quả lao động của mình trên con đường nghệ thuật.
Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã rất yêu thích nghệ thuật dân gian, đặc biệt là Hát Chèo. Nghệ thuật Chèo phát triển mạnh ở các tỉnh Bắc Bộ, đặc biệt là ở các miền quê. Ngày đó, các chương trình Hát Chèo được phát sóng rất nhiều trên vô tuyến, qua đó tôi đã biết đến Chèo và yêu Chèo từ ngày ấy. Vì thế tôi đã quyết tâm thi tuyển vào Nhà hát Chèo để có thể theo đuổi sở thích của mình. Sau này, càng học lại càng say mê và thêm yêu nghề hơn.
JF: Theo chị, điều gì đã giúp chị làm nên thành công?
TH: Đối với một người nghệ sĩ, để có được thành công đòi hỏi muôn vàn yếu tố. Trước tiên, họ phải có tố chất và năng khiếu trời phú, cộng vào đó là sự khổ luyện và tình yêu đối với nghề. Một yếu tố nữa không kém phần quan trọng chính là sự may mắn và cái duyên với nghề. Như bạn biết đấy, có rất nhiều người tài năng thực sự và hết lòng với nghề, nhưng do không gặp thời mà sự thành công và nổi tiếng đã không mỉm cười với họ.
Tôi nhận thấy mình là người rất may mắn, may mắn được khán giả yêu quý, và may mắn được Nhà nước ưu ái đặc cách xét tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú khi mới 13 năm công tác. Trong khi đó, để đạt được danh hiệu này, thông thường người nghệ sĩ đòi hỏi phải có ít nhất 15 năm công tác trong nghệ thuật. Ngoài ra, giải thưởng còn xét đến nhiều yếu tố khác như thành tích giải thưởng, tư cách đạo đức, tư cách nghề nghiệp của nghệ sĩ, vv.
JF: Chèo là loại một trong những loại hình nghệ thuật dân gian cổ nhất Việt Nam, tuy nhiên, nếu hỏi “Chèo là gì?” thì không phải người Việt Nam nào cũng biết, huống chi là các khán giả nước ngoài. Chị có thể giúp các họ hiểu hơn về môn nghệ thuật này?
HT: Câu hỏi rất thú vị! Chèo là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp, trong đó, người nghệ sĩ phải vừa biết hát, vừa biết múa kết hợp với diễn xuất. Chèo thường dựng lại các cái tích hay còn gọi là truyện cổ tích. Ngày xưa, mỗi tích Chèo thường kéo dài thâu đêm suốt sáng và diễn ra ở các Đình Làng hoặc sân kho trong những đêm trăng thanh gió mát của lễ hội mùa.
Chèo xưa được diễn theo ngẫu hứng và luôn có sự giao lưu đối đáp giữa khán giả và nghệ sĩ.
Trải qua hàng trăm năm, Chèo thời nay được cô đọng lại thành 7 tích cổ. Tuy nhiên, các tích không kéo dài thâu đêm suốt sáng nữa, mà được dàn dựng và đưa vào sân khấu hộp như sân khấu kịch. Ngoài ra, khán giả thay vì phải tự tưởng tượng ra bối cảnh của vở Chèo như trước thì nay lại được xem tận mất cảnh vật nhờ sự hỗ trợ của các yếu tố kỹ thuật hiện đại như phông màn, hiệu ứng ánh sáng và âm thanh. Ví dụ khi diễn viên hát “Ôi, tôi đang ở một cung điện nguy nga!”, thay vì phải tưởng tượng ra cảnh cung điện nguy nga như trước, giờ đây sân khấu Chèo được dàn dựng đẹp lung linh như một cung điện.
JF: Như chị chia sẻ, Chèo trước đây thường được biểu diễn trong những ngày hội mùa, nhưng thực tế Chèo có nguồn gốc và xuất xứ như thế nào? Từ đâu hình thành nên tên gọi này?
TH: Chèo sinh ra ở thời kì nào thì không ai rõ. Có người nói Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10, sau phát triển rộng ra toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, nhưng cũng có người nói Chèo xuất xứ từ thời Trần. Tên gọi của Chèo cũng gây nhiều tranh cãi. Có giả thuyết cho rằng “Chèo” có nghĩa là chèo thuyền, vừa chèo vừa hát. Nhưng có giả thuyết khác lại cho rằng sân khấu Chèo trào lộng, người xưa lại đọc chệch chữ trào thành chữ chèo, vv. Tóm lại có khá nhiều giả thuyết nhưng chưa có tài liệu nào minh chứng được những điều đó.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng Chèo được sinh ra từ lối múa hát dân gian của những miền quê đồng bằng Bắc bộ trong những ngày tháng nông nhàn, trong những đêm trăng thanh gió mát, những người nông dân hát đối đáp nhau và tự sáng tác ra các điệu hát dân gian. Rồi, cũng chính họ đã sáng tạo ra các lối diễn và các vở Chèo.
JF: Chèo ngày nay được khán giả Việt Nam đón nhận như thế nào?
TH: Ngày xưa ở Việt Nam đâu có nhiều loại hình nghệ thuật phong phú như bây giờ. Mọi người chỉ biết sinh hoạt ca hát với nhau. Vì không có sự lựa chọn nào khác nên họ chỉ biết yêu Chèo và các loại hình nghệ thuật dân gian mà thôi. Thời nay, khi có nhiều loại hình nghệ thuật du nhập như kịch nói, nhạc nhẹ, phim ảnh thì Chèo không còn là loại hình giải trí độc tôn nữa.
Đối tượng khán giả của Chèo thường là những người lớn tuổi, họ có hiểu biết nhất định về Chèo. Ca từ trong Chèo sử dụng khá nhiều từ cổ mà không phải ai cũng hiểu. Ở độ tuổi trung niên, tâm hồn người ta như đằm hơn nên đã tìm đến Chèo như một cách để tìm đến sự yên bình hay hoài cổ. Tất nhiên vẫn còn đó những bạn trẻ rất yêu Chèo, dù chỉ là số ít.
Hiện nay Bộ Giáo dục cũng đã bắt đầu đưa nghệ thuật dân gian vào giảng dạy ở các trường học. Dẫu sau này các em có thích các loại hình này hay không, nhưng ít nhất các em phải hiểu được các giá trị nghệ thuật truyền thống của đất nước mình. Thực tế, nếu muốn khán giả yêu thích loại hình nghệ thuật nào thì trước tiên phải giúp họ hiểu về loại hình đó. Chèo cũng vậy, nếu bạn không hiểu biết gì về Chèo thì bạn khó mà yêu thích nó được.
JF: Chị có nghĩ rằng, trong thời đại ngày nay, các loại hình nghệ thuật truyền thống luôn đòi hỏi cần phải có sự đổi mới bởi quy luật đào thảo vốn luôn hà khắc?
TH: Theo tôi, không chỉ các loại hình nghệ thuật truyền thống mà bất kể loại hình nghệ thuật nào cũng luôn cần có sự mới mẻ. Bạn cứ tưởng tượng nghệ thuật cũng giống như những món ăn, người thưởng thức nghệ thuật cũng giống như thưởng thức những món ăn yêu thích. Họ thích ăn món nào thì sẽ chọn món đó, không thích món nào thì sẽ bỏ qua ngay. Với Chèo, nếu đôi khi cứ diễn mãi một kiểu thì khán giả cũng sẽ nhanh chán.Vì thế, chúng tôi, những người nghệ sĩ luôn nỗ lực sáng tạo để phục vụ công chúng yêu âm nhạc.
Trước đây cũng có thời gian Chèo được cải biên với những làn điệu hoàn toàn mới. Tuy nhiên, sau một thời gian thử nghiệm, khán giả lại mong muốn được nghe lại những làn điệu Chèo cổ xưa, vì thế Chèo cải biên đành phải chấp nhận bị đào thải.
JF: Cảm ơn chị rất nhiều về những thông tin thú vị vừa rồi. Có lẽ chuyển sang chủ đề về buổi Hòa nhạc Karin và Tứ tấu một chút. Chị có thể chia sẻ với các khán giả cảm nghĩ của mình khi nhận được lời mời tham gia buổi Hòa nhạc?
TH: Khi nhận được lời mời từ bên Trung tâm bạn, tôi rất vui vì có dịp được giao lưu với các nghệ sĩ Nhật Bản và được giới thiệu Chèo đến các khán giả trong nước và nước ngoài.
Cũng qua chương trình, tôi hiểu thêm về nghệ thuật của nước bạn, hiểu về đàn KOTO, về những nét tương đồng và khác biệt giữa cây đàn này với đàn tranh Việt Nam. Nói chung tôi rất vui vì được giao lưu với các bạn nghệ sĩ Nhật Bản.
JF: Chị có nhận xét gì về phần trình diễn của mình ngày hôm đó?
TH: Thực sự mà nói, tôi đã rất hồi hộp khi bước ra sân khấu, bởi đó là lần đầu tiên hát Chèo trên một dàn nhạc kết hợp giữa nhạc dân tộc Việt Nam với Nhật Bản, cùng sự phối khí của đàn Piano và trống nước. Đây là một trải nghiệm mới đầy thú vị mà có lẽ không chỉ với riêng tôi mà ngay cả với các nghệ sĩ Nhật Bản và cả các khán giả.
Trước giờ diễn tôi hơi lo lắng bởi đây là lần đầu tiên tôi hát nhạc sống trong một chương trình kết hợp như thế này. Trước đây, toàn bộ phần tiếng của tôi đều được được thực hiện trong phòng thu. Tuy vậy, khi biểu diễn xong, nhận được sự cổ vũ nhiệt tình từ khán giả, tôi vui lắm và nghĩ chắc là khán giả cũng thích, và hẳn là tiết mục đã thành công thì khán giả mới vỗ tay nhiều đến thế.
Bản thân tôi là một khán giả của chương trình hôm đó cũng đã rất xúc động khi được nghe Chèo trong cái không gian và âm thanh mới lạ đó. Điều khó khăn và thách thức nhất đối với chị khi kết hợp trình diễn với các nghệ sĩ Nhật Bản là gì?
Đầu tiên tôi khá bỡ ngỡ. Cái âm hưởng của đàn KOTO và Tiêu của Nhật thực sự khác với loại nhạc cụ như trong đĩa phối khí mà tôi đã từng làm là đàn Nguyệt và sáo trúc của Việt Nam. Rồi những âm thanh rất lạ và khác biệt từ sự phối khí của đàn Piano và trống nước, cộng thêm sự ngẫu hứng của các nghệ sĩ Nhật Bản đã khiến tôi vô cùng bỡ ngỡ nhưng không kém phần thú vị.
Tuy nhiên, thời gian tập luyện với các nghệ sĩ Nhật Bản hơi gấp rút. Họ chỉ sang Việt Nam và tập với tôi và nghệ sĩ đàn tranh Vân Ánh được có 2 buổi đã phải biểu diễn luôn rồi. Hơn nữa, tôi cũng rất lo lắng vì đây là lần đầu tiên tập với các loại nhạc cụ mới như thế. Có lẽ vì thế mà các bạn Nhật Bản đã ưu tiên tập đi tập lại rất nhiều lần cho tiết mục của tôi. Chương trình sau đó mặc dù diễn ra khá suôn sẻ và nhận được sự cổ vũ nhiệt tình từ khán giả, nhưng thiết nghĩ, nếu các nghệ sĩ có thời gian tập luyện với nhau nhiều hơn thì sự ăn nhập sẽ tốt hơn rất nhiều. Tất nhiên, điều quan trọng hơn cả là chúng tôi có thể đem sự nhiệt huyết của mình đến với khán giả.
JF: Ngoài chương trình này ra, trước đây chị đã từng biểu diễn ở Nhật Bản chưa? Chị có suy nghĩ hay ấn tượng gì về văn hóa, đất nước và con người nơi đây?
TH: Trước đây, tôi cũng có vài lần đi lưu diễn ở Nhật Bản. Tuy chưa thực sự hiểu nhiều về đất nước này, nhưng một điều mà có lẽ ai cũng cảm nhận được là người dân ở đây rất trân trọng các giá trị văn hóa và nghệ thuật truyền thống. Không chỉ những người lớn tuổi mà ngay cả giới trẻ họ đều khá am hiểu về các loại hình nghệ thuật của đất nước mình. Ngoài ra, các công trình kiến trúc cổ ở đây được gìn giữ và bảo tồn gần như nguyên vẹn, như cố đô Kyoto chẳng hạn. Cái đó người Việt Nam cần phải học hỏi rất nhiều.
Cuối cùng, chị có ý tưởng gì hay cho các hoạt động giao lưu văn hóa trong tương lai muốn chia sẻ với chúng tôi? Tôi hy vọng sẽ có nhiều hơn nữa những chương trình giao lưu dành cho nghệ sĩ Việt Nam và Nhật Bản, qua đó các nghệ sĩ có thể tìm hiểu thêm về nghệ thuật hai nước. Tôi cũng hy vọng một ngày nào đó sẽ có một chương trình giới thiệu riêng về nghệ thuật Chèo với khán giả Nhật Bản.
JF: Vâng, cảm ơn chị rất nhiều về những chia sẻ vừa rồi.
Thay cho lời kết, Chúng tôi chúc chị luôn thành công, xinh đẹp, trẻ trung và mãi mãi sẽ là một cô “Huyền Chèo” được yêu mến trong lòng khán giả. Cảm ơn chị vì đã tham gia buổi phỏng vấn .