Tác phẩm “Kinjiki” (Cấm sắc) ra mắt vào tháng 5 năm 1959, trong khuôn khổ chương trình biểu diễn thường niên dành cho các gương mặt trẻ lần thứ 6 của Hiệp hội múa toàn Nhật Bản. Không chỉ là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp thời đầu của Hijikata, ngày nay, đây được coi là tác phẩm đặt nền móng cho sự ra đời của thể loại Butoh. Mượn nhan đề từ tiểu thuyết cùng tên của Mishima Yukio (1925-1970), vở diễn lấy chủ đề về tình yêu đồng giới, vốn là một chủ đề cấm kỵ trên sân khấu Nhật Bản. Dù vậy, đây chỉ là một vở diễn ngắn chừng 15 phút. Sau đây, tôi sẽ tóm tắt những phân tích chuyên sâu quý báu từ bài viết “Ghi chép số 2 về các tác phẩm Butoh của Hijikata”, trong “Nhắn gửi từ Asbestos Hall” (Số 5, 1987) của Goda Nario.

© Ohtsuji Seiji (1959)
Trên sân khấu tối tăm, một chàng trai trẻ xuất hiện từ bên phải cánh gà và tiến xuống sân khấu. Cùng lúc đó, một người đàn ông xuất hiện, trên tay cầm một con gà và tiến đến đằng sau chàng trai. Người đàn ông có một dáng chạy rất kỳ cục: cẳng chân duỗi thẳng, bàn chân giậm bình bịch xuống sàn. Cảm nhận được sự hiện diện của người đàn ông, chàng trai liền căng cứng người lại. Như đã đoán trước được điềm dữ, anh nhìn chằm chằm vào bàn tay với một vẻ mặt ủ rũ rồi tát vào người mình. Chân vẫn cứng đờ, anh tiến vào giữa sân khấu, nơi người đàn ông đang chờ sẵn. Lúc này, dưới ánh sáng chói lòa, người đàn ông giúi con gà về phía trước. Ánh sáng mờ đi, chỉ còn hiện hữu một màu trắng tinh khôi của con gà đang giãy giụa. Chàng trai căng thẳng nhận con gà, nhét nó vào giữa hai đùi rồi siết nó đến chết. Người đàn ông tóm lấy chàng trai, ánh đèn tắt phụt. Tiếng rên và tiếng thở (thu sẵn) vang lên. Người đàn ông nhìn thẳng vào chàng trai và liên tục nói “je t’aime, je t’aime,”. Chàng trai bỏ chạy trong ánh đèn mờ, tay vẫn ôm con gà đã chết. Tiếng harmonica vang lên. Yasuda Shugo, người phụ trách âm nhạc cho các vở diễn của Kazuo thời hậu chiến, đã thêm thắt một chút trữ tình vào cuối vở diễn.
“Kinjiki” trở thành một scandal lớn. Các uỷ viên của Hiệp hội múa Toàn quốc đã đồng lòng chỉ trích vở diễn là tục tĩu và bạo ngược, không cho phép trẻ em xem. Scandal đến tai, Mishima lập tức liên lạc Hijikata để bày tỏ ý muốn được xem vở diễn. Tiểu thuyết cùng tên của nhà văn 34 tuổi này vẫn chưa được giới văn học Nhật Bản công nhận dù ông rất tự tin về nó. Ông đặc biệt quan tâm đến việc những hạt giống thẩm mỹ nguy hiểm đã được gieo rắc bởi múa hiện đại – một lĩnh vực vượt ngoài tầm kiểm soát của ông.
Hijikata mời Mishima đến phòng tập ở Trường Múa Tsuda (sau trở thành Asbestos Hall ở Meguro) và biểu diễn lại lần hai với Yoshito. Mishima vốn chỉ kỳ vọng vào “một vở múa tràn trề những tham vọng của một thanh niên mê văn chương”, nhưng ngay từ cái nhìn đầu tiên, ông đã bị mê hoặc sâu sắc bởi bố cục vở diễn: “Ý niệm sinh ra hành động, hành động sinh ra một năng lượng vô định trú ngụ trong cơ thể, rồi năng lượng đó lại chảy về ý niệm, làm nó phình lên, phân tách và lớn mạnh.” Khi xem lại màn trình diễn giới hạn này cùng với Shibusawa Tatsuhiko và Donald Richie (1924-2013), Mishima đã xem chăm chú như muốn nuốt trọn tác phẩm. Ngay sau đó, ông đã viết “Ác mộng mang tên đương đại – công ty múa Avant-garde với tác phẩm ‘Kinjiki’” (xuất bản lần đầu trong “Geijutsu shincho”, 9.1959, trong “Mishima Yukio zenshu” tập 31 của Shincho, 2005). Đây là một phần trích dẫn từ bài viết đó:

© Ohtsuji Seiji (1959)
Gà đen sử dụng làm vật hiến tế trong nghi lễ voodoo của người Caribe trở thành gà trắng trong “Kinjiki” và được một chàng trai trẻ trắng bóc ôm chặt. Cảnh tượng thầy cúng và nữ phù thuỷ voodoo ngã xuống đất, chất chồng lên nhau tái hiện một sự xoắn xít khổ dâm kỳ quái, giống như hình ảnh chàng trai trẻ và người phụ nữ trong vở “Kokuten” (Đốm đen) (tương phản với sắc trắng của con gà và chàng trai trẻ). “Kinjiki” chiếm trọn trái tim tôi có lẽ vì nó đã toả ra sắc thái nghi lễ vốn rất hiếm thấy trong nghệ thuật đương đại. Tính liên tục trong sự rời rạc là đặc trưng của các nghi lễ, ở đây, ta có thể thấy ác mộng đáng sợ mang tên đương đại đang được thờ tự một cách nghiêm túc.
Mishima tránh thể hiện sự đồng cảm dễ dãi với việc Hijikata chọn chủ đề tình yêu đồng giới. Thay vào đó, Mishima ghi nhận mối tương quan giữa cảnh giết gà trên sân khấu với nghi lễ voodoo, ghi nhận “tính liên tục trong sự rời rạc” trong bản chất của vở múa. Bài viết ngắn này cho chúng ta thấy chiều sâu trong hiểu biết của Mishima. Việc ông chỉ nhắc đến “chàng trai trẻ với làn da trắng bóc” thay vì “chủ mưu” Hijikata có lẽ đã chỉ ra xu hướng (tính dục) tự nhiên của tác giả tiểu thuyết “Kamen no kokuhaku” (Lời tự thú của chiếc mặt nạ, 1949).
Ngày nay, chúng ta không có cách nào để xác định phạm vi hiểu biết của Mishima về triết học hiến tế của Georges Bataille (1897-1962). Nhưng ít nhất, từ bài viết ngắn này, ta có thể kết luận rằng Mishima đã nắm bắt được tầm nhìn về Sinh và Tử của Hijikata một cách rất sát với hiểu biết của triết gia, tác giả của L’Erotisme. “Tính liên tục trong sự rời rạc” là cách biểu đạt ngắn gọn về quan niệm của Hijikata cho rằng “cơ thể = chuyển động”, cũng là cụm từ nêu lên mối quan hệ mật thiết giữa sự dâm dục và cái chết trong tư tưởng của Bataille.
Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi “Kinjiki” ra mắt, Yoshito trò chuyện với tôi về ngày hôm đó.
“Đột nhiên, tôi được đưa cho một con gà sống và được yêu cầu bóp chết nó. Tiếp đó, tôi được yêu cầu phải ‘chạy khắp nơi một cách điên loạn’. Khi tôi đã mệt lử vì chạy, Hijikata nhảy lên xác tôi và liên tục nói ‘je t’aime, je t’aime’. Tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Ông nói rằng đó là ‘Tình bằng hữu sâu đậm giữa nam với nam’. Tôi không hiểu lớp nghĩa ẩn giấu trong đó. Điều duy nhất chắc chắn đã xảy ra trên sân khấu là, tôi không hề giết con gà. Tôi chỉ làm nó ngất đi.”
Điều Hijikata muốn Yoshito làm đó là chuyển động theo một cách không liên quan đến các kỹ thuật múa. Cái mà ông cần là một cơ thể chưa quen với những kỷ luật khi tập múa bài bản, một sự vô tư của một cơ thể chỉ biểu lộ cảm xúc khi trong cơ thể chất chứa đầy nỗi niềm.
Yoshito ngày đó mới tròn 20, còn trẻ và không hay biết gì về tình yêu đồng giới. Anh cũng không hiểu hết những giải thích của Hijikata về vấn đề chính – vi phạm điều cấm kỵ. Cả những quan niệm về hiến tế mà Mishima không ngớt lời khen cũng không quen thuộc với anh – một chàng trai trẻ mê thể thao. Rèn luyện bóng đá từ cấp hai, cơ thể anh hơi khác so với cơ thể của một vũ công. Yoshito không hay biết rằng anh đang đứng ở thời khắc khai sinh ra một loại hình nghệ thuật tượng trưng được gọi là Vũ điệu của Bóng tối. Anh chỉ đơn thuần bị một Hijikata cứng rắn lôi đi, ép buộc lên sân khấu, rồi bị cuốn vào cơn bão của scandal và tán dương.
Vào tháng 9 năm 1959, Hijikata sửa đổi “Kinjiki” thành một vở diễn hai màn, và ở màn hai, ông mời Ohno Kazuo và Wakamatsu Miki (1934-2012) tham gia, hoà trộn tất cả lại thành một tác phẩm rất nặng đô về tư tưởng. Vốn say mê Jean Genet (1910-1986), Hijikata đã mời Kazuo diễn vai Divine trong bản cải biên tác phẩm “Notre Dame des Fleurs” (Đức Mẹ muôn hoa, 1960, nguyên tác Jean Genet) của mình. Với niềm tin tuyệt đối vào Hijikata, Kazuo đã gật đầu ngay tức khắc.
“Divine” (giống cái của danh từ tiếng Pháp “divin”) có nghĩa là Thánh thần. Nhưng trong tiểu thuyết của Genet, Divine là một nhân vật nam giả nữ ăn vận loè loẹt trong những bộ quần áo bẩn thỉu, hoen ố những rác rưởi, đau khổ vì tuyệt vọng khi già đi nhưng cuối cùng lại có một cái chết đầy bi tráng. Kazuo làm việc ở một trường Công giáo, nên gia đình đã rất lo lắng khi ông nhận vai này. Nhưng ông không có chút lấn cấn khi phải múa trong trang phục nữ giới. Thậm chí, ông còn có những thử nghiệm vô cùng táo bạo về trang phục và trang điểm. Trong phiên bản mới của “Kinjiki”, ông xuất hiện trên sân khấu với một khuôn mặt sơn trắng, khoác trên mình một bộ trang phục kỳ cục và xa hoa, đầy lố bịch. Dù gương mặt sơn trắng đã trở thành một quy ước trong Butoh ngày nay, Kazuo – người chịu tác động mạnh mẽ từ những ký ức chiến tranh sâu đậm – lại có một xuất phát điểm hơi khác biệt: sống sót thần kỳ từ chiến trường New Guinea, một vũ công Butoh mang trong mình những ký ức về những xác chết chất chồng thành đống và nuôi dưỡng một ý niệm mạnh mẽ rằng mình cũng chỉ là một xác chết. Ông chủ định thể hiện những kinh nghiệm đó cho những khán giả còn đang sống thông qua cơ thể mình, một cơ thể đã nhìn thấy cái chết ngay trước mắt. Phải rất lâu sau đó, Kazuo mới nhận ra rằng, các khán giả ngồi dưới những hàng ghế tối đen kia là những bóng ma thực thụ.
Vì lẽ đó, “Divine” khác xa với “Roujin to Umi” (Ông già và biển cả) – một vở diễn ra mắt chỉ vài tháng trước đó. Cái bóng của loại hình múa “Neue Tanz” của Đức đã mờ đi rất nhiều. Sự kết hợp giữa màn đầu tiên của Hijikata và Yoshito với màn thứ hai của Kazuo đã tạo nên một sự kiện bước ngoặt sáng chói cho cộng đồng múa Nhật Bản.
Ở buổi tập đầu tiên, tôi hơi sửng sốt khi Hijikata yêu cầu tôi “Yoshito, cứng người lại!” Tôi đã phải rất cố gắng để cứng người lại và hỏi: “Ý anh là cứng đơ thế này ạ?” Trước lúc đó, tôi luôn cố gắng làm cho chuyển động của mình mềm mại và nhanh nhẹn nhất có thể. Tôi đã rất lúng túng vì đó là lần đầu tiên có người tìm kiếm sự cứng nhắc trong chuyển động của tôi. Tôi thậm chí còn đi tâm sự với nhà phê bình múa Goda. “Em rối tung rồi”, tôi nói với ông ấy, “cái em đang làm có đúng là múa không vậy?” Ông ấy khuyên tôi: “Quan trọng là em có tin Hijikata không. Em cứ thử đi.” Tôi đồng ý với ông ấy. Và đó đúng là những gì tôi đã làm: Tôi tin Hijikata và ngoan ngoãn tuân theo các yêu cầu.
Ví dụ, khi luyện tập cho vở Kinjiki, nghe lời Hijikata, tôi sẽ nhìn vào tay mình như thế này. Và rồi, Hijikata sẽ đột nhiên xuất hiện từ đằng sau tôi và đưa cho tôi một con gà. Ông ấy cứ thế đưa con gà mà không có một hiệu lệnh gì. Tôi giật mình và tự hỏi chuyện gì đang diễn ra. Tôi chết đứng vì sợ con gà mổ mắt mình. Hijikata yêu cầu tôi: “Bóp nó chặt vào, bóp nó thật chặt giữa hai đùi.” Tôi làm theo yêu cầu dù không hay biết mục đích là gì. Hẳn, các khán giả tin rằng tôi đã bóp chết con gà.
Sau đó, có một cảnh tôi chạy quanh sân khấu lờ mờ ánh đèn. Hijikata yêu cầu tôi chạy, thế là tôi bắt đầu chạy khắp nơi. Ông bảo tôi “Chạy như một con gà trong đám cháy”. Tôi hỏi lại “Một con gà trong đám cháy?” “Gà không thể nhìn trong bóng đêm, nên nó không hề biết mình đang bay đi đâu nữa.” Tôi tự nhủ điều đó thật đáng sợ. Tôi chạy như điên quanh phòng tới lúc ngã quỵ xuống vì kiệt sức. Rồi, Hijikata trèo lên người tôi. Đó là chỉ dấu cho đoạn thu âm “je t’aime” lặp đi lặp lại của Hijikata. Tôi nhớ lại chi tiết đó vì trong một phân cảnh khác, ông đã chuẩn bị một đoạn thu âm tiếng ông mơn trớn cái lược bằng ngón tay. Ông mô tả nó là “tiếng cót két của một cái cửa bị mở”. Cuối những năm 50 đâu có những thiết bị thu âm. Người chủ tiệm đồ điện tử ở cùng chỗ trọ miễn phí của chúng tôi hồi đó vô tình có một cái máy thu âm. Thế là, Hijikata lén lút thu âm trong những giờ khuya tĩnh lặng. Tôi cứ băn khoăn mãi xem vì sao ông lại thu âm đoạn đó. Tôi đã rất hoảng hốt khi những tiếng “je t’aime” vang lên khi ông ấy trèo lên người tôi.
Original text:
- “The Portrait of Ōno Yoshito”, (Canta Co.Ltd, 2017), p.53-59, written by Inuhiko Yomota
- Booklet “Butoh A Way of Life”, (Canta Co.Ltd, 2015), p.42-43, written by Yoshito Ohno